Chú thích Mạc_Thái_Tổ

  1. Viện Sử học (2007), sách đã dẫn, tr. 511.
  2. Con gái Thông quốc công Nguyễn Thì Ung.
  3. Ngay trong chiếu nhường ngôi của Lê Cung Hoàng (1527) cho Mạc Đăng Dung có đoạn: “...Khi ấy thiên hạ đã không phải là của nhà ta. Ta không có đức, lạm giữ ngôi trời, việc gánh vác không kham nổi. Mệnh trời lòng người đều theo về người có đức. Xét Thái sư An Hưng vương Mạc Đăng Dung nhà ngươi, bẩm tính thông minh, sáng suốt, có tài lược văn võ. Bên ngoài đánh dẹp bốn phương, các nơi đều phục tùng; bên trong coi sóc trăm quan, mọi việc đều tốt đẹp. Công to đức lớn, trời cho người theo. Nay ta cân nhắc lẽ phải, nên nhường ngôi cho.” (Đại Việt Sử ký Toàn thư, Nhà Xuất bản KHXH 1973 tập 4 tr. 118.)
  4. Bản thân sử gia thời Lê sơ Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng có lời bình: “Đinh Tiên Hoàng nhân nhà Ngô đã mất, mười hai sứ quân cát cứ, mất hết kỷ cương, mà dựng nên nước, cũng chưa lấy gì làm khó. Nhà Lê thay Nhà Đinh, Nhà Lý thay Nhà Lê, Nhà Trần thay Nhà Lý đều là nối đời thái bình, nhân lúc suy loạn, lại càng dễ lắm. Nói cho cùng, cũng đều chưa khỏi tiếng cướp ngôi...”
  5. Phạm Văn Sơn trong Việt sử toàn thư (1960) nhận định:Điều gàn dở của mấy nho thần viết sử đã thiếu lý luận và nhận xét thực tế, cứ luôn luôn đem chữ Trung và Trinh ra đọc như kinh nhật tụng, dậy người ta Trung, Trinh một cách bừa bãi, bất kể trường hợp nào. Nói cách khác, cuộc sống của con người vô cùng phức tạp, mỗi chặng đường đi phải có một lối xử thế riêng, đâu có thể lúc nào cũng Trung và Trinh một cách máy móc, phải chăng cái sở học của thời phong kiến tai hại và lạc hậu là ở chỗ này?Tác giả “Nho Giáo” cũng là họ Trần (tức Trần Trọng Kim) đã từng nói đến chữ Trung và chữ Trinh quá thiên về lý thuyết, không nhìn thấy các tội ác của mấy ông “quỷ vương” Nhà Hậu Lê nên đã khép Mạc Đăng Dung vào tội nghịch thần.Vào thời các vua Tương Dực, Uy Mục, triều đình đã suy đốn, hôn ám, vô đạo, thác sinh đủ mối loạn, trên không ra trên, dưới không ra dưới, nghi ngờ mà giết nhau, hoang mang mà hại nhau, người làm tôi không còn biết đạt chữ Trung vào đâu nữa.Xét bản cáo trạng và cả lời luận tội của tác giả “Việt Nam sử lược” ta thấy có vẻ dễ dàng và quá giản dị khiến ta ngạc nhiên về lối suy luận của tác giả, một nhà Nho kiêm cả Tân học. Căn cứ vào cuốn sử nào mà Trần Trọng Kim đã hạ những nhát búa quá nặng nề đối với Nhà Mạc, một triều đại mà ta không thể phủ nhận tinh thần phục vụ quốc gia của họ? Trên tờ Đời Mới năm 1951 ông Lê Văn Hòe có viết một bài khảo luận khá đầy đủ để minh oan cho Mạc Đăng Dung. Họ Lê đã tỏ ra có công tâm trong vụ này.Theo ông Lê thì cả sử Tầu lẫn sử ta đã vô tình hay hữu ý; hữu ý có bề nhiều hơn trong việc miệt thị đối phương. Đó là thói thường của họ, mà gần đây cả các sử gia Âu châu cũng không tránh khỏi thói xấu này. Sử Tầu đã chép Hai Bà Trưng bị quân Đông Hán bắt được, xin làm tì thiếp không được rồi bị đem về chém ở Lạc Dương, bà Triệu Thị Trinh thì gọi là Triệu Ẩu (chữ Ẩu có nghĩa là mụ), đã phô bầy rõ sự hằn học, cục cằn của sử gia Tầu khi nói đến một nữ anh hùng cách mạng của một địch quốc).Sử ta như “Đại Việt Sử ký Toàn thư”, “Đại Nam thực lục” là những cuốn sử do Chúa Trịnh sai chép từ đời Lê Trang Tông đến Gia Tông, đến sử Nhà Nguyễn thì lại càng dễ hiểu. Họ Mạc đã thí vua Chiêu Tông, và đầu độc Nguyễn Kim tổ phụ nhà họ Nguyễn, tóm lại Nhà Mạc là kẻ thù số một của cả Trịnh lẫn Nguyễn luôn từ năm 1527 đến 1592. Hai bên đều nhúng tay vào máu của nhau khá nhiều thì các sử gia của Trịnh và Nguyễn há dám giữ mực vô tư chăng? Dưới thời quân chủ độc tôn, phong kiến chuyên chế, đa số các nho thần chỉ biết uốn ngòi bút theo giòng tư tưởng của nhà vua, nhà chúa thì ta không lạ gì nếu họ Mạc bị bôi nhọ, và sự nghiệp ngót 150 năm của Mạc triều bị lãng bỏ để lu mờ với thời gian.
  6. Thời kỳ thịnh trị của Nhà Mạc cho thấy năng lực trị nước của Nhà Mạc không kém Nhà Lê. Đời sống nhân dân no đủ, xã hội ổn định, không gây những xáo trộn như khi Nhà Hồ thay Nhà Trần. Những lực lượng chống đối Nhà Mạc chính là những thế lực cũ thân Nhà Lê. Theo sử sách, thời Mạc không có một cuộc khởi nghĩa nông dân nào. Điều đó cho thấy Nhà Mạc được lòng dân. Sách “Đại Việt thông sử” của Lê Quý Đôn phải thừa nhận Thái Tổ Mạc Đăng Dung "được lòng người hướng về". Sau khi Hiến Tông qua đời, các vua Mạc lên thay đều là ấu chúa, biến loạn trong ngoài rất nhiều nhưng Nhà Mạc vẫn đứng vững. Ngoài năng lực của người phụ chính, hẳn phải có nền tảng là sự ủng hộ của nhân dân Bắc Bộ lúc đó. Việc họ Mạc tiếp tục cát cứ tại Cao Bằng, ngoài sự can thiệp của Nhà Minh, nếu không được lòng người thì không thể tồn tại tới 80 năm.
  7. Trần Khuê (“Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Vương triều Mạc”, 1991) nhận định: Nhà Mạc là một triều đại đã từng tạo ra được một xã hội ổn định, no ấm, có kỷ cương và pháp luật. Sách Ô châu cận lục có ghi khá cụ thể những cảnh sinh hoạt phồn thịnh của thời kỳ này. Và ngay tác giả Đại Việt sử ký toàn thư (do nhà Lê-Trịnh biên soạn bổ sung ở thế kỷ XVII) và Lê Quý Đôn cũng đã ghi nhận: “Mạc có lệnh cấm các xứ trong ngoài người ta không được cầm giáo mác và binh khí hoành hành ở đường sá, ai trái thì cho pháp ty bắt. Từ đó những người đi buôn bán chỉ đi tay không, không phải đem khí giới tự vệ, trong khoảng mấy năm, trộm cướp biệt tăm, súc vật chăn nuôi tối đến không phải dồn vào chuồng, cứ mỗi tháng một lần kiểm điểm thôi. Mấy năm liền được mùa, nhân dân bốn trấn đều được yên ổn”. Tác giả Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi thêm hiện tượng “đường sá không nhặt của rơi, cổng ngoài không cần đóng”.
  8. Trần Khuê (“Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Vương triều Mạc”, 1991) nhận định:Triều Mạc có nhiều cởi mở về tư tưởng và ngôn luận. Nghiên cứu một loạt bản sớ tấu và một số cuộc đàm thoại giữa vua và đình thần, một số cuộc tranh luận giữa các đại thần Nhà Mạc, tôi thấy dưới triều Mạc có sự cởi mở khá rộng rãi về mặt tư tưởng ngôn luận.Đặc biệt có sự phê phán chỉ đích danh từng đại thần. Đáng kinh ngạc là sự phê phán cả nhà vua. Đọc mấy hàng sớ của Lại bộ Thượng thư Nghĩa Sơn bá Trần Văn Nghi cũng tạm hình dung được cái không khí đấu tranh tư tưởng trong triều đình Nhà Mạc mạnh mẽ nhường nào: “Những tờ sớ của các vị đình thần trước sau đã tâu bày, đều nói thẳng những sự sai lầm, có thể như những liều thuốc hay rất đáng cứu xét tu tỉnh. Bệ hạ đã ban chỉ dụ khen ngợi, mà vẫn chưa thấy mở rộng lượng theo lời can gián (…) Không biết đó có phải do ý định của bệ hạ mà tạo ra tình trạng đó hay là hoặc có kẻ làm mờ ám thông minh, lừa dối bệ hạ chăng? Những việc như thế rất trái với đường lối trị nước. Cho nên thể thống triều đình ngày càng rối lọan, những lời công luận, ngày càng bế tắc”.Hàng loạt sớ nói năng thẳng thắn theo kiểu ấy mà lạ thay vua Mạc không hề hạ lệnh tống giam hoặc giết bỏ một ai.Tóm lại, có thể nói không quá đáng rằng: Nhà Mạc là một vương triều chẳng có gì xấu hơn các vương triều khác và nó cũng tốt chẳng kém bất kỳ vương triều “chính thống” nào trong lịch sử dân tộc. Riêng về những nét độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc thì hầu như ít có vương triều sau này sánh nổi.Do đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng sáu con trai ông và rất nhiều nhân tài khác (có một số là cựu thần Nhà Lê) tình nguyện và tận tụy phụng sự vương triều Mạc tưởng cũng chẳng có gì khó hiểu. Tất cả đều đóng góp vào một giai đoạn phát triển của dân tộc về mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực kinh tế và văn hóa. Giai đoạn này tương ứng với giai đoạn phát triển của một số nước ở châu Âu sau đó khoảng nửa thế kỷ. Riêng về sự thất bại của Nhà Mạc, tôi sẽ lý giải trong một dịp khác.Chỉ xin nói ngay một điều: đó là sự thất bại nằm trong sự thất bại của tầng lớp thương nhân Việt Nam bắt đầu tính từ thời Nhà Hồ, qua Nhà Mạc, Nhà Tây Sơn, cho đến tận Nhà Nguyễn với cuộc đàn áp khốc liệt, đẫm máu của vua Minh Mệnh đối với cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi trên đất Gia Định vốn có một nền kinh tế hàng hóa phát triển. Sự thắng thế của các tập đoàn quý tộc quan liêu và ý thức hệ tiểu nông đã nhiều phen cản trở sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, đồng thời tạo ra những thảm họa cho đất nước và dân tộc.
  9. GS Nguyễn Huệ Chi (Bước đầu suy nghĩ về văn học thời Mạc) đã khái quát: “Một trong những đặc điểm nổi bật của văn học thời Mạc là thời đại này đã bước đầu xây dựng nên hình tượng con người tự do. Ở thời đại Lê sơ vì lực hút của triều đình phong kiến, Nho giáo độc tôn mạnh, nên gần như hút về tâm là quỹ đạo chủ đạo. Đến một Nguyễn Trãi vĩ đại là thế mà khi bị ruồng rẫy về Côn Sơn bao giờ lòng cũng đau đáu nghĩ đến vương triều, hễ được vời ra thì ra lại ngay. Đến thế kỷ XVIII lại có một hiện tượng ngược lại là người ta bỏ chạy khỏi triều đình, bỏ chạy để về sống ẩn, chỉ có mình với mình. Đây là thời đại ly tâm. Vào thời đại Mạc thế kỷ XVI thì khác, người ta không bị hút về tâm nữa nhưng cũng không hẳn ly tâm, nhờ đó tạo nên chính sự tự chủ cho người thức giả. Mình muốn ra thì ra, muốn về thì về, biểu trưng rõ nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm ra thi với Mạc rồi sau 7 năm, thấy cần phải xuất thế ông bèn chủ động rút lui, bấy giờ Mạc vẫn chưa suy thoái. Về một thời gian ông lại ra giúp. Chính phong thái ung dung chủ động kia đã tạo nên tiếng nói tự do, tự tại trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và thơ văn của rất nhiều người như Nguyễn Hãng, Nguyễn Dữ… Dòng mạch tư duy tự do tự tại quy tụ nên hình tượng con người không bị lệ thuộc trăm phần trăm vào quyền lực nữa mà ít hay nhiều đã là con người giải thoát. Cần phải thừa nhận rằng trong cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có một phương diện gọi là tự tại. Nhàn ở đây không là ẩn, chưa phải xã hội thối nát đến mức mình không thể chấp nhận nổi mà trở về chăm nom vài luống cúc, hoặc lẩn trốn vào cửa thiền, hoặc tìm quên trong thú vui cần câu, chén rượu. Nhàn, bởi mình cảm thấy phải làm chủ cuộc sống của mình, cho nên tự mình trở về an nhàn nghỉ ngơi. Nhưng khi Nhà Mạc kêu gọi đi đánh bọn phản loạn thì Nguyễn lại hăng hái ra giúp. Nhàn trong trường hợp này là nhàn tự tại. Nhàn tự tại chính là nét khác với nhàn ở nhiều thời đại khác là thứ nhàn chỉ muốn lánh đục, lánh triều đình, “dũng thoái”. Nhàn tự tại không cố chấp mà hồn nhiên hơn.”
  10. Trần Khuê (“Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Vương triều Mạc”, 1991) nhận định:Dưới vương triều Mạc, nhiều ngành nghệ thuật phát triển rực rỡ và độc đáo. Hầu hết các chùa đổ nát đều được trùng tu và các chùa Tây Phương, Phổ Minh đã đánh dấu một nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ khá tài hoa độc đáo. Tượng bà chúa Mạc ở chùa Phổ Minh và các pho tượng La Hán chùa Tây Phương là những công trình nghệ thuật đậm đà màu sắc dân tộc. Đặc biệt là gốm thời Mạc lại ghi khắc cả niên hiệu, nơi sản xuất và tên nghệ nhân. Ghi tên tác giả trên tác phẩm gốm có lẽ là một hiện tượng hiếm thấy trong lịch sử sáng tác gốm ở nước ta và thế giới. Đó là một hiện tượng cực kỳ độc đáo và lý thú đáng được nhiều ngành khoa học và nghệ thuật quan tâm nghiên cứu. Dưới thời Nhà Mạc, nghệ thuật kiến trúc lâu đài và thành lũy cũng có nhiều vẻ độc đáo không nên bỏ qua.
  11. Trong bài viết “Bước đầu suy nghĩ về văn học thời Mạc”, GS Nguyễn Huệ Chi có những phân tích: “Nhìn trong xu thế chung, văn học Việt Nam có một yêu cầu nội tại để tạo nên bước nhảy vọt thật sự kể từ thế kỷ XVI trở đi, dấu mốc nhảy vọt ấy rơi đúng vào văn học triều đại Mạc. Đây là cái ngẫu nhiên mà cũng là cái tất yếu của lịch sử. Thời đại Lê sơ là đỉnh cao của độc tôn Nho giáo và thể chế quân chủ tập trung, phải chọn một vị vua làm biểu tượng để cho dân tôn thờ, thần thánh hóa, đặc điểm chung của văn học bởi vậy là hướng thượng. Phải quay nhìn lên ông vua và lấy ông vua làm hình mẫu, đem cảm hứng “vua sáng tôi hiền” kết nối thành động lực sáng tác. Đến triều đại Mạc, sau bao nhiêu chặng “vua quỷ”, “vua lợn” của triều Lê sơ làm người ta chán nản, tự nhiên hình tượng cao quý là các ông vua bị lu mờ, bị hạ thấp từ trong tiềm thức. Và cảm hứng “thần thánh hóa” đấng minh quân mất dần chỗ đứng. Người ta không còn hào hứng ngẩng lên, “hướng thượng” trong sáng tác của mình. Tình trạng này gây ra một phản ứng trái ngược trong vô thức: người sáng tác bắt đầu từ chỗ nhìn lên nay quay nhìn trở xuống. Và khi nhìn xuống hạ dân thì một thế giới khác chợt hiện rõ trong tầm mắt. Họ bỗng nhìn thấy con người với bao nhiêu sự phức tạp, thánh thiện có mà tầm thường cũng có, ở chính đối tượng gần gũi nhất với mình ấy. Con người được phơi bày với những dục vọng, toan tính, những nét thấp hèn và cao cả, những tình cảm riêng tư, cá nhân. Đó chính là một phát hiện lớn của văn học thời Mạc, mở đầu cho một dòng văn học chạm chân vào hiện thực. Văn học thay đổi chức năng mà không tự biết: nó mô tả xã hội dưới góc nhìn đời tư và đời thường.
    Trước đây, thông qua tiêu chí “cái cao cả”, nhà văn nhìn xã hội dầu không muốn cũng như được đánh bóng lên, được ước lệ hóa, công thức hóa, mỹ hóa thành một xã hội vàng son song trừu tượng, đâu cũng như nhau. Nhưng bây giờ nhìn vào khía cạnh đời tư đời thường thì cũng xã hội ấy lại hiện ra dưới muôn hình vạn trạng... Đó là cả một xã hội phức tạp. Nó không thuần nhất là xã hội nông nghiệp nữa mà bắt đầu có buôn bán, có thủ công, có làm giàu, và có đủ thứ lục đục xoay quanh nó, có cuộc đấu tranh giữa quyền lực và không có quyền lực, giữa ham muốn và bất lực. Không loại trừ cuộc đấu tranh muôn thuở về đạo đức giữa cái thiệncái ác. Một xã hội phong phú hơn nhiều so với bức tranh xã hội thời Lê sơ mà văn học để lại.
    Tính quy định vẻ đẹp tức là cái sắc màu sống thực của thời đại này phản chiếu trong văn học, thể hiện tiêu biểu ở tập truyện “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ cũng chuyển cả sang thơ, làm cho thơ ca mang một phương thức tư duy mới. Trước đây, thơ là thơ trữ tình. Thơ bây giờ cũng là thơ trữ tình nhưng là trữ tình - lý trí. Nó rời bỏ tư duy cảm tính bước sang địa hạt tư duy lý tính. Và hướng cái nhìn vào xã hội, ấy là tư duy thế sự. Thơ trở nên có tính phát hiện hiện thực rất sắc mà cây bút tiêu biểu là Nguyễn Bỉnh Khiêm... Chúng ta thấy phong cách tư duy nghệ thuật của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khác Nguyễn Trãi. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn sâu vào các ngóc ngách của xã hội để nhận diện bức tranh phức tạp của xã hội. Bức tranh ấy diễn ra một cách tự nhiên bởi nó là bức tranh xã hội có thực... Do cái nhìn thế sự, cái nhìn khám phá tâm lý sâu sắc, do xã hội phức tạp, có công, có thương, buôn bán phát triển, nên văn học nhìn thấy tiếng va xiết của đồng tiền. Đây chính là giai đoạn bắt đầu nói đến vai trò của đồng tiền.”
  12. GS Trần Lâm Biền (“Nhà Mạc, nhìn từ di sản văn hóa”) nhận định: “Chỉ tới khi Nhà Mạc lật đổ được Nhà Lê sơ (lúc đó đã mục ruỗng cùng cực), có thể coi là một cuộc cách mạng; với những chính sách tự do hơn rất nhiều, đã như tạo nên một sự bùng nổ, tạo đà cho “văn hóa dân gian” phát triển. Ở lĩnh vực mỹ thuật, điều trước hết phải thấy rằng, thời Mạc đã tạo nên một nền nghệ thuật tạo hình khác so với thời Lý, Trần và cũng khác cả nền mỹ thuật nặng tính áp chế của thời Lê sơ... có nghĩa nó không theo phong cách Ấn, cũng không theo Trung Hoa, tuy rằng, nó vẫn có đôi nét kế thừa tinh hoa của hai nền nghệ thuật này (sau khi đã được Việt hóa hoàn toàn). Mỹ thuật thời Mạc, cũng như triều đại Mạc, đều là “sản phẩm” của hoàn cảnh lịch sử ở thế kỷ XVI, sự xuất hiện này đã như là một lẽ tất yếu, mặt nào là sự cưỡng lại của ý thức dân tộc, dân dã trước xu hướng áp chế dựa trên tư tưởng Nho giáo của Nhà Lê sơ – thời kỳ mà nền văn hóa nghệ thuật bị rơi vào tình trạng khá khô cằn. Nhà Lê sơ đã không nắm được nét khác biệt cơ bản về hạ tầng cơ sở của xã hội Việt và Trung Hoa, nhưng vẫn úp lên đầu người dân một thể chế không phù hợp, nên dần dần đã tạo nên một sự “bức bối” cho hệ ý thức xã hội, dẫn tới cuộc “đảo chính” của Nhà Mạc. Từ đây, xã hội Việt chuyển sang một “trang” mới, dù cho về cơ bản vẫn là chế độ quân chủ chuyên chế Nho giáo. Nhà Mạc đã xóa bỏ nhiều cấm đoán khắt khe của Nhà Lê sơ, Phật giáo và nhất là Đạo giáo dân gian được thở trong bầu không khí khá thoáng...
    Nhìn chung, cho đến nay, chúng ta chưa đủ điều kiện để phát hiện đầy đủ về mỹ thuật thời Mạc, nên khó có thể khẳng định về bất kể điều gì liên quan tới nền nghệ thuật này. Chúng tôi mong, phần viết trên chỉ mang tư cách là vài gợi mở bước đầu, với một ước vọng đặt vấn đề, cần phải quan tâm sâu hơn tới giai đoạn mỹ thuật có tính bản lề này – Và, mới ở những nhát cuốc đầu tiên, chúng tôi tạm có thể yên tâm mà nói rằng: Thực sự đã có một nền mỹ thuật Mạc riêng. Nền mỹ thuật này đậm tính nhân bản, biểu hiện nhiều yếu tố tự do, phản ánh được một số vấn đề của lịch sử, cho phép chúng ta vượt qua hình thức thể hiện của nó, để suy ngẫm rộng hơn về một vài khía cạnh thuộc kinh tế - xã hội, về luồng nội thương ở đất Bắc đã trở nên khá sinh động (tượng Quan Âm, cầu ngói, chợ búa, gốm thương mại...)”.
  13. Phan Cẩm Thượng trong bài viết “Nghệ thuật tạo hình thời Mạc: Vẻ đẹp của hình khối” nhận định: “Trong nền nghệ thuật Việt Nam, nghệ thuật thời Mạc (1527-1592) chiếm một vị thế rất riêng, có phong cách khác hẳn với tính nhịp điệu truyền thống của sáng tạo Việt Nam trước và sau đó. Nghệ thuật thời Mạc, cách đây gần 500 năm, nổi lên với phong cách tạo hình súc tích, có tính module, có sự đơn giản và quy về khối cơ bản, khiến người ta không khỏi ngạc nhiên về xúc cảm gần gũi với design công nghiệp hiện đại".
  14. Tô Ngọc Hằng (2011). Giáo dục, khoa cử thời Mạc từ năm 1527 đến 1592 (Luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử, Chuyên ngành Lịch sử Việt Nam, Trường Đại học Vinh).
  15. Nhận định chung về Nhà Mạc, nhà nghiên cứu Trần Khuê (Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và vương triều Mạc, Trung tâm nghiên cứu Hán-Nôm, 1991) đã viết: “Tóm lại, có thể nói không quá đáng rằng: Nhà Mạc là một vương triều chẳng có gì xấu hơn các vương triều khác và nó cũng tốt chẳng kém bất kỳ vương triều “chính thống” nào trong lịch sử dân tộc. Riêng về những nét độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc thì hầu như ít có vương triều sau này sánh nổi".
  16. GS Trần Quốc Vượng cho rằng: “Hành động “đầu hàng” của Nhà Mạc do Minh sử chép là một sự phóng đại để khoe khoang, hành động ấy vua Lê sau này cũng lặp lại gần nguyên xi thì lại không bị sử gia Nhà Lê nêu lên để phê phán. Đó (việc làm của vua Mạc) chẳng qua là một hành động “tượng trưng”, (quàng dây lụa vào cổ, không phải là tự trói), một sự “nhún mình” (cũng có thể nói là hơi quá đáng) của một nước nhỏ đối với nước lớn trong điều kiện tương quan chính trị ngày xưa (và nên nhớ lúc ấy Mạc Đăng Dung đã thôi ngôi được 10 năm rồi và là một ông già sắp chết (từ Nam quan trở về được mấy tháng thì ông qua đời), ông già này gánh nhục cho con, cho cháu và cho cả nước mà cứ bị mang tiếng mãi!). Tất cả ứng xử của Mạc với Minh cũng chỉ nằm trong một chiến lược ngoại giao hằng xuyên của Việt nhỏ Hoa lớn “thần phục giả vờ, độc lập thực sự” (Vassalité fidive, Indépendance réelle). Mà thực sự ở thời Mạc không có bóng một tên xâm lược nào trên đất nước ta, quan bảo hộ, dù hình thức như chức “Đạt lỗ hoa xích” ở Thăng Long triều Trần cũng không. Thế tại sao người này thì khen là khôn khéo, người khác lại chê là hèn hạ?” (trích bài “Mấy vấn đề về Nhà Mạc” trong cuốn “Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử”, Nhà Xuất bản KHXH, HN, 1996.)
  17. Trong bài “Một chút cơ duyên với họ Mạc” (trong sách Hợp biên thế phả họ Mạc do Nhà Xuất bản Văn hóa Dân tộc xuất bản năm 2001), Giáo sư Trần Quốc Vượng đã có những nhận xét mang tính tổng quan về vai trò lịch sử của thời đại Nhà Mạc trong dòng chảy chung của lịch sử Việt Nam:Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (đỗ Trạng đầu thời Mạc 1533, thời cuối Lê không chịu đi thi) cũng như người bạn vong niên thân thiết của ông Trạng nguyên Giáp Hải - với bài thơ “Vịnh bèo” nổi tiếng của ông đối đáp với tướng Mao Bá Ôn Nhà Minh - là hai vị Trạng nguyên sáng giá nhất của triều Mạc và của mọi thời đại Việt Nam. Không lẽ một ngụy triều tồi tệ lại sản sinh ra những hiền tài-nguyên khí quốc gia? Không lẽ thời Mạc “tồi tệ” ấy lại để lại cho đến nay những cái đình (Tây Đằng, Thụy Phiêu, Thanh Lũng, Thổ Hà, Tường Phiêu, Đinh Là…), các chùa quán (Hội Linh, Bối Khê, Trăm Gian…) với các điêu khắc gỗ tinh tế đầy bản sắc dân tộc-dân gian, các tượng chân dung hiện thực vào loại đầu tiên của nền mĩ thuật dân gian, không lẽ dưới một vương triều, đế triều “bán đất”, “đầu hàng” mà lại phát triển công thương dường ấy?
  18. 1 2 Đại Việt thông sử, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin, 2007, tr. 312, 313.
  19. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, 1998, tập 3, trang 43.
  20. Viện Sử học (1996), sách đã dẫn, tr. 232.
  21. Viện Sử học (1996), sách đã dẫn, tr. 233.
  22. 1 2 Viện Sử học (1996), sách đã dẫn, tr. 235.
  23. Viện Sử học (1996), sách đã dẫn, tr. 232-233, 237.
  24. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, trang 36, 37, 38.
  25. Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr. 254.
  26. Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr. 255.
  27. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, tóm tắt phần Uy Mục đế.
  28. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, trang 53.
  29. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, trang 58.
  30. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, trang 76.
  31. Con của Nguyễn Văn Lang.
  32. Con của Trịnh Duy Sản và chắt của Trịnh Khắc Phục.
  33. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, trang 82.
  34. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, trang 86.
  35. 1 2 Đại Việt thông sử, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin, 2007, trang 316.
  36. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, trang 87.
  37. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, trang 88, 89.
  38. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, trang 89.
  39. Đại Việt thông sử, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin, 2007, trang 317.
  40. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, trang 92.
  41. Nay là Thất Khê, Lạng Sơn.
  42. 1 2 3 Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyền 15
  43. Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr. 260.
  44. Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr. 259.
  45. Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr. 261.
  46. Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr. 262.
  47. 1 2 Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr. 263.
  48. 1 2 3 Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên quyển 27.
  49. Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr. 264.
  50. http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=2354&Catid=225
  51. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Bản điện tử, trang 105.
  52. Đại Việt thông sử, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin, 2007, tr. 327.
  53. 1 2 Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, 1998, tr. 110.
  54. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, 1998, tr 110, 111, 112.
  55. 1 2 Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, 1998, tr. 112.
  56. Đại Việt thông sử, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin, 2007, tr. 332.
  57. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, 1998, tr. 114.
  58. Đại Việt thông sử, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin, 2007, tr. 341.
  59. 1 2 Đại Việt thông sử, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin, 2007, tr. 331.
  60. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, 1998, tr. 115.
  61. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, tr. 112.
  62. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, tr. 120.
  63. 1 2 Việt Nam sử lược, Chương II, Nam triều Bắc triều, bản điện tử, tr. 114.
  64. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, tập 3, tr 120, 121, 122.
  65. Lịch triều hiến chương loại chí, Nhà Xuất bản Giáo dục, tập 1, 2007, tr. 257.
  66. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, 1998, tập 3.
  67. Đại Việt thông sử, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin, 2007.
  68. Lịch triều hiến chương loại chí, tập 3, Nhà Xuất bản Giáo dục, 2007.
  69. Kiến văn tiểu lục, quyển 1, Nhà Xuất bản Trẻ, 2012.
  70. Chú giải của Hoàng Cao Khải, Việt sử yếu, 339, 1971, Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa xuất bản.
  71. Ngô Thì Nhậm toàn tập (Tập 3), Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, 2005.
  72. Việt Nam sử lược, Nhà Xuất bản Văn học, 2012.
  73. Đất nước Việt Nam qua các đời, Nhà Xuất bản Nhã Nam 2016, trang 221, Trấn Yên Bang.
  74. Xung đột vùng - miền giữa các tộc Việt từ thế kỷ XIII đến XIX - Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
  75. Nhiều tác giả, sách đã dẫn, tr. 34.
  76. Viện Sử học (2007), sách đã dẫn, tr. 448-449.
  77. Nhiều tác giả, sách đã dẫn, tr. 98.
  78. Huệ Thiên, “Mạc Đăng Dung có dâng đất cho Nhà Minh hay không?”, Bán nguyệt san Kiến thức Ngày nay, phụ san của Tạp chí Văn, Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, số 70, ra ngày 15/10/1991.
  79. Viện Sử học (2007), sách đã dẫn, tr. 448.
  80. Nhiều tác giả, sách đã dẫn, tr. 93.
  81. Trích bài “Mấy vấn đề về Nhà Mạc” trong cuốn “Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử”, Nhà Xuất bản KHXH, HN, 1996.
  82. Trước khi mất, Phò mã Đô úy Thái phó Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn đã đưa thư khuyên Mạc Kính Cung (vua Nhà Mạc thời hậu kỳ) rằng:Nay khí vận Nhà Mạc đã hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để phải mắc nạn binh đao, ai nỡ lòng nào! Chúng ta nên lánh ra ở nước khác, nuôi dưỡng uy lực, chịu khuất đợi thời, chờ khi nào mệnh trời trở lại mới làm được, chứ không thể lấy lực chọi với lực. Khi hai con hổ tranh nhau, tất phải có một con bị thương, không có ích gì cho công việc. Nếu thấy quân họ đến đây thì chúng ta nên tránh đi, chớ có đánh nhau với họ, cốt phòng thủ cẩn thận là chính; lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng.GS Trần Gia Phụng (“Những cuộc đổi họ lớn trong lịch sử”) có những lời bình luận:Đây không phải lời nói suông trong cảnh trà dư tửu hậu, nhưng đây là tâm huyết của một con người sắp nằm xuống trong cơn hoạn nạn cùng cực vì mất nước. Suốt trong lịch sử Việt Nam, chúng ta thường được nghe những lời nói của Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, hào hùng như vó ngựa tổ tiên, nhưng ít khi được đọc những dặn dò như Mạc Ngọc Liễn, nhân bản, đầy tình tự dân tộc không khác gì lời ru êm ái trong những câu ca dao mộc mạc. Điểm quan trọng nhất là con cháu Nhà Mạc đã không kêu nài van xin người Minh đem quan sang đánh nước ta giống như Nhà Lê đã làm. Họ chỉ yêu cầu Nhà Minh can thiệp cho họ về sinh sống đất Cao Bằng. Chính họ đã góp công phát triển Cao Bằng, tạo thế đoàn kết kinh-thượng và biến Cao Bằng thành một vùng biên giới vững chắc để chống lại Trung Hoa. Công trạng nầy tuy không rực rỡ như đường về phương nam của Chúa Nguyễn, nhưng sử sách cũng không thể quên tuyên dương họ Mạc.Trần Khuê (“Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và vương triều Mạc”, 1991) cũng bình luận:Giá như mọi thứ Mạt Trần, Mạt Lê, Mạt Nguyễn… đều biết suy nghĩ như thế! Và chẳng lẽ một lời nói đẹp như vậy không đáng được nhắc lại để con cháu chúng ta ngẫm nghĩ hay sao? Và chẳng lẽ những lời nói đẹp tương tự đã vang lên dưới các triều vua Mạc lại không đáng được đưa vào sách giáo khoa hay sao?!
  83. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Bộ Giáo dục - Trung tâm học liệu xuất bản, tr. 229.
  84. Phạm Văn Sơn cũng từng có thời gian là sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
  85. Ngô Đăng Lợi: Chính sách ngoại giao Nhà Mạc, bài học lịch sử giá trị, trong sách Kỷ yếu Hội thảo khoa học Vương triều Mạc trong Lịch sử Việt Nam, H, 9 - 2010, tr. 218.
  86. Phan Huy Chú: Bang giao chí, (bản dịch), Nhà Xuất bản Sử học, 1961.
  87. 1 2 Bí ẩn đại long đao 500 tuổi của vua Mạc ở Hải Phòng
  88. Đại đao 500 năm tuổi của Mạc Đăng Dung - đâu là sự thật?